GRAPHIC DESINGER

วันจันทร์ที่ 24 มกราคม พ.ศ. 2554

Giải quyết lỗi “Setup did not find any hard disk drives” khi cài Windows XP

Một trong những lỗi thường gặp khi cài đặt mới Windows XP là thông báo “Setup did not find any hard disk drives(Không tìm thấy ổ cứng trên máy tính) và nó khiến bạn bối rối vì rõ ràng là máy tính có ổ cứng, thậm chí bạn đã tiến hành format ổ một cách cẩn thận.

Lỗi này thường xảy trên một máy tính mới bởi driver ổ của máy chưa đặt về chế độ hỗ trợ XP, thường là điều khiển SATA (Serial ATA)
Nếu không có ổ đĩa mềm trên máy tính (thường thì những máy tính hiện nay không còn sử dụng ổ này) thì bạn sẽ cần phải sử dụng một quá trình gọi là Slip-streaming – tích hợp sẵn driver ổ vào đĩa CD cài đặt Windows XP.

Tìm kiếm Driver cho XP

Nơi tốt nhất để có thể tìm driver là trên chính website của hãng phần cứng mà bạn đang sử dụng. Chúng ta có thể sử dụng chương trình WinImage. Với ví dụ sau, bạn sẽ thấy đường dẫn download cho Intel SATA controller driver cho máy tính HP
Download và chạy file thực thi để giải nén một file với tên gọi f6flpy32.exe vào thư mục tạm. Đừng thử chạy file này bởi nó sẽ đòi hỏi bạn chạy trên ổ đĩa mềm.
Vậy bạn sẽ phải làm gì với file này? Có một vài cách có thể để thực hiện tùy thuộc vào cách đóng gói các file của nhà sản xuất:

- Sử dụng WinImage để giải nén chúng, đây là một phần mềm mà bạn có thể dùng thử trong vòng 30 ngày trước khi đăng ký.

- Sử dụng WinRar để giải nén. Trong nhiều trường hợp file này sẽ giải nén ra file *.flp.

- Một vài driver cho phép bạn tự động giải nén vào một thư mục.

Sau đây là danh sách các file mà WinImage có thể điều khiển
Chạy WinImage và mở file, bạn sẽ trông thấy phần nội dung bên trong. Chỉ việc giải nén chúng vào một thư mục, tốt nhất là nên đặt tên thư mục sao cho dễ nhớ.
Tạo một đĩa XP tùy chỉnh

Chúng ta sẽ sử dụng phần mềm có tên gọi nLite để tạo một đĩa cài đặt XP, bạn có thể download phần mềm này tại đây. Cài đặt và khởi chạy chương trình nLite, bạn sẽ nhận được thông báo nạp vào bộ cài đặt Windows, kích vào nút Browse.
Duyệt tới thư mục chứa bộ cài đặt trên ổ đĩa CD, sau đó kích vào OK trên cửa sổ Browse For Folder.
Tiếp theo bạn sẽ nhận được thông báo chỉ ra vị trí muốn lưu lại các file tạm được sử dụng trong suốt quá trình Slip-streaming. Trong ví dụ này, chúng tôi tạo một thư mục mới với tên gọi XPISO nhưng bạn có thể đặt bất kỳ tên gì, chỉ lưu ý một điều nó phải là một thư mục mới.
nLite sẽ copy toàn bộ các file cần thiết cho bộ cài XP vào trong thư mục tạm đã tạo. Sau khi hoàn thành, bạn sẽ trông thấy thông tin về phiên bản Windows XP mà bạn sử dụng.
Nhấn vào nút Next cho đến khi thấy màn hình sau, tại đây bạn có thể chọn các tùy chọn mong muốn. Trong ví dụ này chọn DriversBootable ISO.
Lưu ý: Bạn có thể chọn bất kỳ tùy chọn nào nếu cần. nLite sẽ đóng gói toàn bộ tùy chọn, thiết lập các tác vụ hoặc tự động bỏ đi những các thành phần trong bộ cài đặt, nhưng trong mục đích bài viết này thì chỉ cần chọn 2 tùy chọn trên.

Nhấn Next cho đến khi gặp màn hình lựa chọn các driver. Nếu kích vào nút Insert, bạn có thể chọn giữa việc thêm một driver đơn hoặc một thư mục driver. Trong trường hợp này là thư mục driver mà bạn đã tìm kiếm và giải nén được ở phần trên.
Duyệt tới thư mục chứa các file driver đã được giải nén, sau đó kích Open. Việc lựa chọn file *.inf nào không thực sự quan trọng bởi vì bạn sẽ lựa chọn toàn bộ các file trong thư mục.
nLite sẽ đưa ra thông báo lựa chọn driver. Nếu không biết chính xác driver nào, bạn có thể sử dụng Device Manager trong Vista để tìm chính xác thiết bị hoặc nếu không thì chọn toàn bộ các tùy chọn gợi ý. Chỉ lưu ý một điều là không chọn driver cho hệ thống 64-bit nếu máy tính của bạn là 32-bit hoặc không nên chọn sai phiên bản hệ điều hành.
Bạn nên tìm kiếm các driver cho cả thiết bị lưu trữ và mạng vì những driver này là cần thiết và thường bị thiếu khi cài đặt XP.
Tới đây bạn đã gần như hoàn thiện quá trình tạo đĩa. Giờ chỉ việc chọn ghi trực tiếp vào CD hay chọn Create Image để tạo một file ISO.

Lưu ý: Nếu chọn tạo một file ISO, phải đảm bảo bạn kích vào nút Make ISO trước khi kích Next.
Sau quá trình này bạn đã có một file ISO hoặc 1 đĩa CD để bắt đầu quá trình cài đặt XP.

Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Ổ dĩa cứng sau một thời gian sử dụng sẽ có hiện tượng báo lỗi khi truy xuất dữ liệu và có thể không thể khởi động được, máy bị đứng (treo) trong khi đèn tín hiệu báo ổ dĩa cứng vẫn sáng liên tục... đó là dấu hiệu cho thấy ổ dĩa cứng bị lỗi Bad Sector.

Nếu bị lỗi nhẹ có thể sử dụng chương trình Scandisk có sẵn trong Windows để sửa (Xem hướng dẫn Sử dụng Scandisk để kiểm tra lỗi dĩa trong Windows XP), tuy nhiên nếu ổ dĩa bị lỗi Bad Sector khá nặng thì Scandisk thường không sửa được mà phải dùng đến các chương trình chuyên dụng hơn để sửa lỗi.

Bài viết này sẽ hướng dẫn cách sửa lỗi Bad Sector của dĩa cứng bằng chương trình HDD Regenerator, chương trình này có khả năng phục hồi lại các lỗi dĩa (Bad Sector) mà không làm mất dữ liệu trong ổ dĩa. Đây cũng là một trong những chương trình thường dùng để "tẩy" Bad cho ổ dĩa cứng. HDD Regenerator có trong dĩa khởi động Hiren's BootCD, có thể tìm mua dĩa này tại các cửa hàng bán dĩa CD-ROM vi tính hoặc tìm trên mạng Internet với từ khóa "Hiren's BootCD".


Khởi động chương trình HDD Regenerator:

Cho máy vi tính khởi động từ dĩa Hiren's BootCD bằng cách mở máy vi tính lên và nhanh chóng cho dĩa CD này vào ổ dĩa CD-ROM và đóng ổ dĩa lại ngay. Khi xuất hiện màn hình khởi động của Hiren's BootCD, chọn Start BootCD.

http://img253.imageshack.us/img253/3481/14298802.jpg
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Trong Menu phân loại của Hiren's BootCD, chọn Hard Disk Tools.

http://img253.imageshack.us/img253/2041/39302106.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Trong Menu chương trình của Hard Disk Tools, chọn HDD Regenerator.

http://img253.imageshack.us/img253/3299/93419808.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Màn hình HDD Regenerator báo cho biết có bao nhiêu ổ dĩa cứng và dung lượng của từng ổ dĩa. Hãy nhấn một phím bất kỳ để tiếp tục hoặc nhấn phím Esc để thoát khỏi chương trình nếu muốn.

http://img227.imageshack.us/img227/1676/66447577.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Nếu máy có nhiều ổ dĩa cứng thì chương trình sẽ yêu cầu chọn ổ dĩa, nhập vào số thứ tự tương ứng với ổ dĩa muốn sửa lỗi và nhấn phím Enter.

http://img227.imageshack.us/img227/7736/49460911.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Chú ý: Ổ dĩa cứng được hiển thị trên đây là ổ cứng vật lý (ổ cứng thật) chứ không phải là ổ dĩa từ các phân vùng (Partition) đã được chia. 

Trong màn hình kế tiếp chương trình sẽ đưa ra lựa chọn bắt đầu kiểm tra (Scan) từ vị trí nào của ổ dĩa, nếu muốn kiểm tra từ đầu thì cứ để nguyên số 0 (mặc nhiên) và nhấn phím Enter để tiến hành kiểm tra.

http://img227.imageshack.us/img227/3742/67337571.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Nếu xác định được ổ dĩa cứng bị lỗi ở phần nào thì có thể chỉ cho bắt đầu kiểm tra từ vị trí đó bằng cách nhập vào giá trị dung lượng muốn kiểm tra từ đó.
Thí dụ: Trong máy gắn 1 ổ dĩa cứng có dung lượng 5GB (tính chẵn khoảng 5.000MB) và được chia làm 2 phân vùng (Partition) là ổ C: có dung lượng 3.000MB và ổ D: có dung lượng 2.000MB, nếu xác định chỉ bị lỗi khi truy xuất dữ liệu trên ổ D: thì có thể nhập 3000 và nhấn phím m, chương trình sẽ tự chuyển thành Mb (MB) sau đó nhấn phím Enter để tiến hành kiểm tra ổ dĩa bắt đầu từ vị trí 3.000MB cho đến hết.

http://img227.imageshack.us/img227/6065/90580914.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Chương trình sẽ tiến hành kiểm tra và hiển thị các thông tin trên màn hình, quá trình kiểm tra và sửa lỗi sẽ mất rất nhiều thời gian.

http://img227.imageshack.us/img227/6733/48598599.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Trong khi chương trình kiểm tra, nếu tìm thấy lỗi (Bad Sector) nó sẽ hiện chữ B và bắt đầu sửa bằng cách phục hồi lại, sau khi được phục hồi chỗ bị lỗi sẽ hiển thị chữ R. Nếu không phục hồi được lỗi này chương trình sẽ cố gắng di chuyển dữ liệu vào nơi khác và đánh dấu B (Bad) để dữ liệu không sẽ được ghi vào chỗ bị lỗi này.

http://img227.imageshack.us/img227/5471/51638323.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Sau khi kiểm tra và sửa lỗi xong chương trình sẽ hiển thị thông báo hoàn tất, nhấn một phím bất kỳ để kết thúc. Sau đó chương trình sẽ tiếp tục hiển thị bảng thông kê kết quả, nhấn phím bất kỳ một lần nữa để thoát khỏi chương trình.

http://img227.imageshack.us/img227/2189/49751079.png
Sửa lỗi (BAD) ổ cứng bằng HDD Regenerator

Lưu ý:

Trong quá trình kiểm tra, nếu muốn ngưng việc kiểm tra lại thì có thể nhấn tổ hợp phím Ctrl + Pause/Break để kết thúc chương trình, những lỗi đã sửa vẫn có hiệu lực.
Nếu thấy chương trình HDD Regenerator kiểm tra rất chậm và liên tục hiển thị nhiều chữ B có nghĩa là ổ dĩa đã bị lỗi quá nặng, nên thay mới để đảm bảo cho dữ liệu.

Chúc các bạn thành công.

(Nguồn: buaxua.vn)


Bổ sung: Phần mềm này có thể sửa BAD ổ cứng mà không làm mất đi dữ liệu đang có trong ổ.
Theo kinh nghiệm thì với ổ cứng dung lượng từ 80GB trở xuống mà thời gian sửa BAD hơn 6h vẫn chưa xong có nghĩa là ổ cứng BAD quá nặng, bạn không cần chờ tiếp, Bạn nên mua ổ cứng mới hoặc đem đi bảo hành (nếu còn trong thời hạn bảo hành)

Một số kiến thức cơ bản về FAT32 và NTFS

Trước khi cài đặt, Windows XP luôn đòi hỏi format lại đĩa cứng theo định dạng FAT32 hoặc NTFS. Sử dụng các chương trình format đời mới hiện nay nó cũng đưa ra lựa chọn giữa FAT32 và NTFS. Vậy hệ thống FAT32 và NTFS trên đĩa cứng là gì, tác dụng của nó thế nào, nên chọn loại nào cho máy tính?



Khái niệm về FAT và NTFS





FAT16: Với HĐH MS-DOS, hệ thống tập tin FAT (FAT16 – để phân biệt với FAT32) được công bố vào năm 1981 đưa ra một cách thức mới về việc tổ chức và quản lý tập tin trên đĩa cứng, đĩa mềm. Tuy nhiên, khi dung lượng đĩa cứng ngày càng tăng nhanh, FAT16 đã bộc lộ nhiều hạn chế. Với không gian địa chỉ 16 bit, FAT16 chỉ hỗ trợ đến 65.536 liên cung (clusters) trên một partition, gây ra sự lãng phí dung lượng đáng kể (đến 50% dung lượng đối với những ổ đĩa cứng trên 2 GB).





FAT32: được giới thiệu trong phiên bản Windows 95 Service Pack 2 (OSR 2), được xem là phiên bản mở rộng của FAT16. Do sử dụng không gian địa chỉ 32 bit nên FAT32 hỗ trợ nhiều cluster trên một partition hơn, do vậy không gian đĩa cứng được tận dụng nhiều hơn. Ngoài ra với khả năng hỗ trợ kích thước của phân vùng từ 2GB lên 2TB và chiều dài tối đa của tên tập tin được mở rộng đến 255 ký tự đã làm cho FAT16 nhanh chóng bị lãng quên. Tuy nhiên, nhược điểm của FAT32 là tính bảo mật và khả năng chịu lỗi (Fault Tolerance) không cao.





NTFS (New Technology File System): được giới thiệu cùng với phiên bản Windows NT đầu tiên (phiên bản này cũng hỗ trợ FAT32). Với không gian địa chỉ 64 bit, khả năng thay đổi kích thước của cluster độc lập với dung lượng đĩa cứng, NTFS hầu như đã loại trừ được những hạn chế về số cluster, kích thước tối đa của tập tin trên một phân vùng đĩa cứng.

NTFS sử dụng bảng quản lý tập tin MFT (Master File Table) thay cho bảng FAT quen thuộc nhằm tăng cường khả năng lưu trữ, tính bảo mật cho tập tin và thư mục, khả năng mã hóa dữ liệu đến từng tập tin. Ngoài ra, NTFS có khả năng chịu lỗi cao, cho phép người dùng đóng một ứng dụng “chết” (not responding) mà không làm ảnh hưởng đến những ứng dụng khác. Tuy nhiên, NTFS lại không thích hợp với những ổ đĩa có dung lượng thấp (dưới 400 MB) và không sử dụng được trên đĩa mềm.





So sánh giữa FAT32 và NTFS

NTFS là hệ thống file tiên tiến hơn rất nhiều so với FAT32. Nó có đầy đủ các đặc tính của hệ thống file hiện đại và FAT32 không hề có. Bạn nên dùng NTFS để thay thế cho FAT32 vì các lý do sau:

- FAT32 không hỗ trợ các tính năng bảo mật như phần quyền quản lý, mã hoá.. như NTFS. Vấn đề này đặc biệt hiệu quả đối với Windows. Với NTFS, bạn có thể không cần sử dụng các tiện ích mã hoá hay đặt mật khẩu giấu thư mục v.v, vì đây là đặc tính đã có sẵn của NTFS, chỉ cần bạn biết khai thác. Việc xài các tiện ích không nằm sẵn trong hệ điều hành để thao tác trực tiếp với đĩa vẫn có ít nhiều rủi ro.

- FAT32 có khả năng phục hồi và chịu lỗi rất kém so với NTFS. Có một số ý kiến cho rằng NTFS không tương thích nhiều với các chương trình kiểm tra đĩa hay sửa đĩa mà người dùng đã quen thuộc từ lâu, như vậy sẽ vô cùng bất tiên trong trường hợp đĩa bị hư sector. Nên yên tâm vì NTFS là hệ thống file có khả năng ghi lại được các hoạt động mà hệ điều hành đã và đang thao tác trên dữ liệu, nó có khả năng xác định được ngay những file bị sự cố mà không cần phải quét lại toàn bộ hệ thống file, giúp quá trình phục hồi dữ liệu trở nên tin cậy và nhanh chóng hơn. Đây là ưu điểm mà FAT 32 hoàn toàn không có.



Khi mà mất điện đột ngột thì Windows 98, 2000, XP… đều phải quét lại đĩa khi khởi động lại nếu đĩa đó được format bằng chuẩn FAT32. Trong khi format đĩa cứng bằng NTFS thì lại hoàn toàn không cần quét đĩa lại, bởi vì hệ thống dùng NTFS có được những thông tin về tính toàn vẹn dữ liệu ghi trên đĩa và nó mất rất ít thời gian để biết được về mặt logic đĩa của mình có lỗi hay không và nếu có thì hệ thống cũng tự phục hồi một cách cực kỳ đơn giản và nhanh chóng. Với FAT32 thì nó phải rà quét toàn bộ lâu hơn nhiều. Một hệ thống Windows 2000, XP sẽ ổn định hơn nhiều nếu cài trên phân vùng được format bằng NTFS. Ngoài ra NTFS còn được trang bị công cụ kiểm tra và sửa đĩa rất tốt của Microsoft.


- NTFS có khả năng truy cập và xử lý file nén ngon lành hệt như truy cập vào các file chưa nén, điều này không chỉ tiết kiệm được đĩa cứng mà còn gia tăng được tuổi thọ của đĩa cứng.

- Nhiều người phàn nàn rằng không thể truy cập vào các đĩa cứng được format bằng NTFS khi đang ở DOS, Windows 98 hoặc WinME… Thực ra thì DOS, Windows 98 và Windows ME đã quá cũ và các phần mềm còn hữu dụng của chúng cũng không còn bao nhiêu.



- NTFS đặt được quota sử dụng cho người dùng, vô cùng tiện dụng cho các hệ thống máy ở công ty. Đặc biệt tiện dụng khi “âm thầm” cấm được con cái sao chép những phim ảnh độc hại vào các thư mục “bí mật” của chúng trong đĩa cứng.


Ngoài ra, NTFS còn có rất nhiều tiện ích tuyệt chiêu chuyên sâu khác cho giới người dùng cao cấp khác như “mount partition”, tạo “hard link” tới một file, hỗ trợ dùng RAID v.v

- Nếu bạn đã thực sự quyết định chọn NTFS làm “duyên giai ngẫu” thì bạn có thể từ bỏ hẳn FAT 32 kể từ nay. Hiện có rất nhiều tiện ích chuyển đổi từ FAT 32 sang NTFS tùy bạn lựa chọn. Tiện hơn cả là dùng bộ tiện ích có sẵn trong các đĩa CD khởi động bằng Hirenboot đang rất phổ biến hiện nay.

Tuy thế, FAT32 vẫn còn tỏ ra hữu dụng trên các máy tính cấu hình quá yếu ớt, chỉ có thể chạy được Windows 98. FAT16 và FAT32 vẫn được dùng để định dạng cho các loại thẻ nhớ, vì các thiết bị chấp nhận thẻ nhớ như máy ảnh số, máy nghe nhạc vẫn chưa thấy loại nào tương thích với NTFS cả. FAT16 luôn là lựa chọn hàng đầu khi bạn muốn copy dữ liệu của mình từ một máy tính chạy Windows sang máy chạy hệ điều hành khác như Mac chẳng hạn. Hầu hết các máy Mac hiện nay đều không thể nhận dạng các thẻ nhớ USB được định dạng bằng FAT 32.

(Theo TTO)